SÁCH CỦA MỌI SÁCH Kinh Thánh, cuốn sách ta thường đọc, gồm 72 cuốn: 45 cuốn của Cựu Ước và 27 cuốn của Tân Ước. Lâu đời nhất là sách Mai-sen, đã có từ hơn 3000 năm. Người ta bảo, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn và chỉ vẽ cho người viết phải viết thế nào và Ngài đã giúp họ tránh lầm lẫn: “Điều này được viết cho dòng dõi sẽ tới, để dân tộc sắp được tạo thành ca ngợi Thiên Chúa”. Có phải tất cả Kinh Thánh thật sự đều là lời Chúa không? Nếu đúng như thế, thì lẽ ra Chúa Thánh Thần phải biết trái đất hình cầu, chứ đâu phải hình dĩa! Vâng, người ta có thể nêu ra những thắc mắc hài hước như thế. Nhưng anh thấy đó, người ta cũng phải suy nghĩ về nét cá biệt của Kinh Thánh. Hãy so sánh Kinh Thánh với kinh Co-ran, chẳng hạn. Tín hữu Islam xác tín rằng Co-ran do Chúa trực tiếp đọc cho viết. Chẳng cần phải thông qua lịch sử, chẳng cần môi giới con người nào, đó là lời Chúa trực tiếp. Kinh Thánh, trái lại, có một cấu trúc hoàn toàn khác. Nó được môi giới qua một lịch sử, và chính sách đó được viết trải dài hơn một ngàn năm. Việc Mai-sen hay một ai đó có thật sự là tác giả hay không, chuyện này ta tạm để qua một bên. Nhưng đúng là văn chương Kinh Thánh đã hình thành trải qua một ngàn năm lịch sử, và trong đó phản ảnh nhiều tầng lịch sử và văn minh khác nhau. Chẳng hạn trong ba chương đầu của sách Sáng-thế, ta đối diện với một hình thái văn minh khác với hình thái của thời lưu đày hay thời sách Khôn ngoan hoặc cuối cùng là thời văn chương tân ước. Như vậy, rõ ràng đây không phải là lời trực tiếp của Chúa, nhưng là lời viết về một lịch sử do Ngài dẫn lối, là chứng từ của lịch sử đó. Đọc Kinh Thánh, người ta bắt gặp những câu chuyện thật gay cấn và những dụ ngôn ơn ích cho cuộc sống – nhưng cũng gặp vô số chuyện đầy mâu thuẫn. Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như là lời Chúa, khi đọc nó trong sự lôi cuốn của cái nhất thống, của cái toàn thể, chứ không phải đọc từng chữ, từng câu. Đó là một cái gì rất nền tảng và rất gây cấn. Kinh Thánh vì thế chứa đựng nhiều chuyện mâu thuẫn hoặc chắc chắn hào hứng, bởi vì, trước mắt ta, đức tin được trình bày như là một hệ thống chưa hoàn chỉnh. Kinh Thánh không phải là sách giáo khoa về Chúa hay những chuyện của Ngài, nhưng nó chứa đựng những hình ảnh mở ra các nhận thức và những cái nhìn đang phát triển, và trong đó cũng cho thấy một lịch sử đang được hình thành. Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như là lời Chúa, nếu khi đọc, tôi biết nối cái này với cái kia, biết dùng hình ảnh này để sửa hình ảnh kia. Nếu khi đọc, tôi không đặt những hình ảnh đó trong liên quan với cuộc sống phúc âm, thì lúc đó tôi chỉ đọc những câu chuyện lịch sử mà thôi. Dĩ nhiên các câu chuyện đó có những trạng huống đặc biệt, nhưng chúng cũng chỉ là những câu chuyện riêng rẽ - và đó không hẳn bao giờ cũng là lời Chúa trực tiếp. Rắc rối quá. Một là, ta coi Kinh Thánh như những câu chuyện lịch sử thuần tuý, trong đó có thể nói các yếu tố con người được phơi bày ra một cách không che đậy. Hai là, ta nhìn nó trong tổng thể như là lời Chúa, trong đó các sự việc có liên quan với nhau và chúng mở ra từ từ. Nhìn như thế, thì tiêu chuẩn linh ứng và không sai lầm không thể áp dụng một cách máy móc được ở đây. Không thể rút ra một câu nào đó, và bảo rằng câu này trong sách Chúa và tất nhiên nó phải đúng. Kinh Thánh là lời Chúa, khi ta nhìn nó như một lịch sử thống nhất. Người Do-thái cũng quan niệm như thế. Họ phân biệt giữa kinh Thora như là quy điển thật sự của Kinh Thánh, và các sách tiên tri và sách truyện khác như là một loại khung. Còn chúng ta, như đã nói, chúng ta xác tín Tân Ước là chìa khoá của Cựu Ước. Đó là lí do các giáo phụ thần học và thần học thời trung cổ không bao giờ gọi Kinh Thánh là “mạc khải”. Mạc khải là cái gì lớn hơn, cái gì đứng đàng sau Kinh Thánh. Và linh ứng có nghĩa là những tác giả Kinh Thánh – nên nhớ Kinh Thánh thường là kết quả của các tập thể - đều xuất phát từ dân Chúa và viết về lịch sử của Ngài. Gọi là linh ứng, vì họ là những người, xuyên qua nhiều trung gian, đã diễn tả lịch sử dân Chúa và sự hướng dẫn của Ngài ra bằng chữ viết, trong đó có phần đóng góp của chính Chúa. Có nghĩa là toàn bộ lịch sử nhân loại đã được ghi chép trong Kinh Thánh, từ đầu đến cuối. Trong đó đã gồm mọi khôn ngoan, mọi bí mật, và cả mọi biến cố cho tới hôm nay và cả tương lai. Muốn hiểu nó, chỉ cần thủ đắc một thứ chìa khoá. Vì thế ta chỉ cần học cách mở khoá. Ngài nghĩ gì về quan điểm này? Nếu hiểu một cách phiến diện và máy móc thì quan điểm đó sai. Có người tin rằng đã nắm được chìa khoá, rồi bảo rằng Chúa muốn nói đến chiến tranh nguyên tử trong sách Khải-huyền, chẳng hạn, và gán cho Chúa là tác giả của những biến cố. Dĩ nhiên ta có thể theo cách đó nhìn ra nhiều tương đồng lạ lùng và thấy được nhiều chuyện đã được nói trước. Nghĩ rằng trong Kinh Thánh đã chứa sẵn mọi sự kiện thực nghiệm, là hoàn toàn sai. Cái toàn thể và tổng thể có thật trong Kinh Thánh mang bản chất hoàn toàn khác. Kinh Thánh nói về toàn bộ lịch sử, và cũng mở ra những nguồn sáng cơ bản chiếu soi đường đi của lịch sử. Nhưng Chúa không nghĩ thay chúng ta. Ngài không thay thế khoa học, không thay thế những nỗ lực tinh thần của chính chúng ta. Ngài để cho chúng ta, như đã nói, tự do vật lộn với thế giới. Ngài không nhảy vào lỗ hổng kiến thức của ta, nhưng ban cho ta khôn ngoan - sự khôn ngoan này dĩ nhiên bao gồm cả kiến thức trong nó, vì nếu không, thì nó chẳng phải là khôn ngoan thật sự. Ngài cho ta những định hướng cần thiết để ta có thể sống đúng. Những bảng chỉ đường của Ngài có giá trị cho toàn bộ lịch sử, cho mọi nơi mọi thời, nhưng vấn đề là ta phải luôn hiểu chúng một cách mới. Sách giáo lýcó ghi lại câu của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô: Lời trong Kinh Thánh lớn lên với người đọc. Và người đọc cũng lớn lên với Lời đó, và chỉ như thế Lời mới cho thấy nét cao cả của nó và đồng thời lớn lên trong lịch sử. Có người tin rằng Kinh Thánh chứa đầy bạo tàn, bất dung và thiếu độ lượng. Họ đếm được 250 chỗ nói tới việc tiêu diệt kẻ thù. Mặt khác, một thầy dòng già nói với tôi, càng đọc Kinh Thánh, cuộc sống thường nhật của ta bắt đầu càng thay đổi, tiến về hướng tốt đẹp hơn. Đúng, tôi cũng muốn nói như thế. Nếu tôi đọc Kinh Thánh chỉ để tìm những cảnh rùng rợn, hay để thu góp những màn máu me, thì việc đọc hẳn chả giúp gì cho tâm hồn. Một mặt, Kinh Thánh quả là tấm gương phản chiếu lịch sử, nhưng mặt khác, nó cũng là con đường dẫn đưa từng người tiến về ánh sáng. Khi tôi đọc Kinh Thánh đúng với tinh thần của nó, nghĩa là đọc trong tư thế hướng về Đức Ki-tô, cũng như khi người Do-thái đọc nó với tinh thần vô tư và tin tưởng, lúc đó Kinh Thánh có sức biến đổi thật. Nó đưa tôi vào phong cách của Đức Ki-tô, chỉ ra cho tôi ý nghĩa cuộc đời và làm chính tôi biến đổi. Ngài có lần nói, sở hữu chủ của Kinh Thánh là dân thường, chứ không phải là hạng thông thái. Điều đó tôi muốn nói với thần học giải phóng. Đúng là: Kinh Thánh do Dân Chúa viết ra, các tác giả riêng rẽ được linh ứng, vì thế tiếng nói của họ cũng là tiếng nói của Giáo Hội, và qua Giáo Hội Chúa nói với ta. Vì thế, Kinh Thánh cũng được trao cho đức tin của những người đơn sơ. Dĩ nhiên cần có những chuyên viên, những học giả để diễn giải những chuyện thuần lịch sử và khoa học. Nhưng ý nghĩa quyết định của Kinh Thánh thì ngay tín hữu bình dân cũng hiểu được. Kinh Thánh thật sự được viết ra cho mọi người nên ai cũng hiểu. Thánh An-tịnh có một câu thật hay: Con thỏ và con lừa rừng đều uống từ một nguồn suối, cả hai đều đã khát. Mà quả thực như thế, thỏ và lừa đều nhận được của uống phù hợp cho mình. Có một lô những tài liệu không được nhận vào Tân Ước. Ngày nay, những tài liệu thuộc loại ẩn thư đó đã được khai quật và được nói đến khá nhiều. Có lẽ người ta đã kết thúc công việc điển chế Kinh Thánh quá sớm? Chuyện điển chế là một trong những vấn đề lớn, ngay cả cho Cựu Ước. Cựu Ước cũng có nhiều ẩn thư, và cũng có những quy điển khác nhau. Người ta đã phân biệt rất sớm giữa quy điển Alexandria, là tập hợp các sách Cựu Ước được dịch ra tiếng Hi-lạp, và quy điển Masora, mà đạo Do-thái đã ấn định sau thời Đức Ki-tô. Dĩ nhiên, đã có những tài liệu quan trọng – như kinh Thora và cả phần nhiều các sách Tiên tri – từ lâu đã được xếp vào loại quy điển rồi, nhưng nói chung, vào thời Đức Ki-tô công việc điển chế vẫn còn chưa xong. Từ cái nhìn Tân Ước, hầu như toàn bộ quy điển Alexandria được công nhận là quy điển của Cựu Ước. Còn các giáo sĩ Do-thái chọn quy điển Masora, là bản mỏng hơn, vì theo họ bản Alexandria chứa quá nhiều yếu tố Ki-tô giáo. Cuối cùng, Luther chọn bản quy điển do-thái, mà ông cho là bản duy nhất đúng. Vì vậy ngày nay Cựu Ước của Tin lành mỏng hơn Cựu Ước của ta. Lịch sử điển chế Tân Ước quả rất nhiêu khê. Dù các phần cơ bản đã định hình vào cuối thế kỷthứ hai rồi, nhưng chuyện điển chế vẫn dây dưa mãi tới thế kỷthứ năm. Nhìn từ quan điểm thuần lịch sử, hay nói như nhà thần học tin lành Harnack[1], là nhìn từ góc độ tự do, ta có thể nói được rằng, việc điển chế Tân Ước xẩy ra một cách tình cờ, dù vậy, các tài liệu thật sự quan trọng và giá trị đều đã được nhận vào đầy đủ trong đó. Nếu xét từ góc độ đức tin, thì việc quy điển đã không do một ai làm nên cả, chẳng phải do một nhóm nhà thông thái tụ nhau lại nghiên cứu sắp đặt, nhưng nó đã được hình thành lần hồi qua việc Giáo Hội sống trực tiếp với những bản văn sống động đó, và nhất là chúng cũng đã được bảo toàn nhờ phụng vụ. Người xưa đã tự hỏi: Cái gì nên đọc? Cái gì mang giá trị phổ quát? Cái gì đã được ki-tô hữu do-thái, hi-lạp và la-tinh công nhận? Có thể nói, qua một tiến trình sàng lọc khó khăn, Giáo Hội đã chọn ra những gì là nền tảng chung (dĩ nhiên có những chút khác biệt tuỳ từng vùng trong Giáo Hội). Ngày nay, có những nỗ lực xét lại và làm lại từ đầu một phần quy điển. Đặc biệt các phong trào nữ quyền thấy quan điểm của họ được phản ảnh trong các tài liệu ngộ giáo và những tài liệu này lại không được nhận vào Tân Ước. Vì thế, họ đòi có một quy điển khác. Nhưng, như vậy có nghĩa là chối bỏ Giáo Hội sống động để thay vào đó những tái cấu trúc của các nhà thông thái. Như vậy là người ta muốn có một cuộc trưng cầu về đức tin. Vấn đề là: Tôi tin có Giáo Hội, Giáo Hội này được nhận ra nơi một đức tin chung và đặt nền tảng trên đức tin đó. Hay tôi cho rằng việc tuyển chọn các bản văn mang tính tình cờ và lịch sử? Nếu tôi theo quan điểm thứ hai, thì tôi cứ việc tìm lấy một Ki-tô giáo khác, và cứ việc tìm cho mình những nguồn mới khác. Mặt khác, chẳng tìm đâu ra một nguyên bản các sách Kinh Thánh nào. Lại nữa, làm sao tránh khỏi lỗi lầm khi chép lại các văn bản. Như vậy làm sao xác định được sự trung thực của Kinh Thánh? Vẫn xác định được, đó là điều chắc chắn. Dĩ nhiên người ta vẫn còn tranh luận nhau từng chữ từng câu. Cứ đọc ấn bản Tân Ước mới và mang tính phê bình của Nestle-Aland[2] thì rõ, trong đó có biết bao điểm khác với ấn bản thường. Nhưng, dù đọc và học được nhiều cái hay trong các bản chép tay đó, dù biết được những phong trào và kinh nghiệm của Giáo Hội phản ảnh trong đó, cuối cùng ta vẫn nhận ra nét bản chất không đổi của Kinh Thánh. Dù ta chọn cho mình một bản chép tay khác hay chọn một lối đọc khác, thì Kinh Thánh vẫn vậy. Có nhiều biến thái và khía cạnh hay, nhưng bản văn và bản chất thực của nó nhìn chung vẫn không đổi. Và chính vì tính trung thực của nó được bảo đảm, nên nó có thể xuất hiện dưới nhiều biến thái khác nhau. Phan-sinh không những đọc Kinh Thánh, mà còn dùng nó như một lối chơi bài. Tương truyền, khi lập dòng, ngài mở đại một trang sách và nói: “Chúng ta làm như thế!”. Rồi lại mở một trang khác và nói: “Đấy là luật dòng chúng ta!”. Cả thánh An-tịnh cũng có lần mở đại một trang và áp dụng cho đời mình; trang đó đã biến đổi hoàn toàn con người ngài. Chuyện đó có lâu lắm rồi. Cả thánh An-tịnh cũng đã từng nghe chuyện đó. Trang Kinh Thánh đã đổi đời An-tịnh và Phan-sinh. Vua Baudouin nước Bỉ có lần kể cho tôi hay, ông cũng áp dụng cách thức đó, và luôn gặp được những câu ông cần, và chúng đã mang lại cho ông ơn ích không thể tưởng. Trong một cuộc khủng hoảng chính phủ thật trầm trọng, ông không còn biết làm sao để lập chính phủ, ông liền vào nhà nguyện, cầm Kinh Thánh dở ra và đã tìm được phương cách giải quyết. Chuyện có thể xẩy ra. Và đó là lời khuyên cho những ai muốn lập chính phủ… Dĩ nhiên. Nhưng ta không thể đơn giản dùng nó như một toa thuốc. Bằng không, Kinh Thánh trở thành sách bói toán. Điều đúng và quan trọng, là ta đọc Kinh Thánh thường đều, và để lời Chúa đồng hành và hướng dẫn ta. Cứ suy tư với nó, ta sẽ gặp được những lời thiết thực có ích cho ta trong những tình huống nhất định.
|